Mối tình huyền thoại của cựu tù Côn Đảo và 14 năm đợi chờ: “Anh còn hơi thở là còn yêu em”

0
137

Ông Lê Hồng Tư và bà Nguyễn Thị Châu phải lòng nhau trong những ngày hoạt động cách mạng. Tình yêu ấy đã giúp họ có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua 14 năm đằng đẵng.

Câu chuyện tình yêu huyền thoại giữa hai chiến sỹ cách mạng Lê Hồng Tư và Nguyễn Thị Châu đã được nhà văn Nguyễn Văn Bổng khắc họa trong tiểu thuyết Áo Trắng.

Những ấn tượng đầu tiên

Kể về thời khắc “định mệnh” gặp người con gái của đời mình trong cuộc phỏng vấn với TTXVN, đôi mắt của cựu tử tù Côn Đảo Lê Hồng Tư lại ánh lên với nụ cười đầy hạnh phúc. 

Ông Lê Hồng Tư vốn là công nhân hỏa xa được bố trí cho đi học lớp đề tam ở trường Văn Lang. Ông Tư được tổ chức cách mạng đưa vào các trường học để gây dựng phong trào đấu tranh của học sinh – sinh viên.

Ngày đầu năm học 1956, có một nữ sinh từ Biên Hòa đến trường Văn Lang (Sài Gòn) nhập học. “Tôi bị thu hút bởi vẻ dịu dàng, cách nói năng nhỏ nhẹ, lễ phép và đặc biệt là bộ áo dài trắng thướt tha, mái tóc dài hiền hòa của cô ấy. Đó cũng là ngày đầu tiên tôi gặp Châu,” ông Lê Hồng Tư kể với phóng viên TTXVN. 

Trái tim nhiệt huyết của người chiến sỹ cách mạng Lê Hồng Tư kể từ đó liên tục rung lên không ngừng vì sự nhanh nhẹn, chăm chỉ và chân thật, hòa nhã của cô bạn Nguyễn Thị Châu. Châu cũng rất gan dạ, kiên cường nên được lựa chọn để bồi dưỡng trở thành hạt nhân của phong trào đấu tranh chống Mỹ trong học sinh – sinh viên.

“Từ những rung động ban đầu, dần dần, tôi cảm thấy thực sự thương và muốn bảo vệ, che chở cho người con gái có vẻ ngoài nhỏ bé mà nghị lực phi thường ấy,” ông Tư bồi hồi nhớ lại những rung động tuổi trẻ. 

Một ngày cuối năm 1958, trái tim chàng trai Lê Hồng Tư như thắt lại khi lần đầu tiên Nguyễn Thị Châu từ chối lời thổ lộ tình cảm của ông. 

Sau đó, Lê Hồng Tư bị lộ và phải chuyển sang trường khác. Nguyễn Thị Châu tiếp tục ở lại gây dựng phong trào ở trường Văn Lang. 

“Không phải tôi không thương ảnh mà vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, cha mất sớm, tôi đã hứa phải chăm sóc cho đứa em còn nhỏ. Hơn nữa, tôi muốn cống hiến hết mình để cách mạng sớm thành công”- bà Châu tâm sự về lý do lần đầu tiên từ chối tình cảm của ông Tư với báo Người lao động. 

Nhiều tháng sau, ông Tư lấy hết can đảm hẹn gặp bà Châu lần nữa. Ông Tư kể trong cuộc trò chuyện với nguồn trên: “Hôm ấy tôi hỏi mà cô Châu chỉ im lặng. Cuối cùng tôi nói dứt khoát, chừng nào còn sống trên đời này, tôi còn giữ ý định kết hôn với cô Châu. Rồi tôi ra đi…”. Đó cũng là cuộc gặp cuối cùng trước cuộc chia xa kéo dài 14 năm đằng đẵng.

14 năm định mệnh

Năm 1961, ông Tư bị địch bắt, kết án tử hình và đày ra Côn Đảo chờ ngày hành quyết. Lúc đó, bà Châu cũng đã bị địch bắt, khi bị áp giải lên nha tổng thì bà Châu nghe được tin sét đánh kia. “Tôi nấc lên mà không dám khóc, sợ mai mắt sưng đỏ tụi lính biết được”, bà Châu kể với Zing News. 

Cũng trong ngày nhận được tin ông Tư bị địch kết án tử hình, bà Nguyễn Thị Châu đi đến quyết định quan trọng nhất đời người: Bà nhận lời cầu hôn của Lê Hồng Tư dù ông đã không còn đứng đó để tỏ tình thêm lần nữa. Dù ông có bị tử hình, bà vẫn sẽ là vị hôn thê của ông. Chuyện đó, đồng đội đều biết, chỉ trừ Lê Hồng Tư. 

Kể lại suy nghĩ lúc ấy với báo QĐND, bà Châu nói: “Ảnh bị địch bắt và sắp bị xử tử. Vậy thì mình sẽ công khai nhận là vợ chưa cưới của ảnh, để chúng biết rằng chúng có thể giết chết thân xác người cộng sản nhưng không thể giết chết tình yêu và lý tưởng của họ”. 

Sau khi có quyết định quan trọng đó, bà Châu kiếm 2 mảnh vải đen xé ra từ 2 chiếc quần đùi cho để thêu hai chữ T và C lồng vào nhau rồi nhờ bạn tù gửi đến cho ông Tư ngoài Côn Đảo. Đó là vật làm tin, là lời thề ước trọn đời của 2 chiến sĩ cách mạng trung kiên. 

Phải mất vài năm sau, ông Tư mới nhận được kỷ vật mà bà Châu gửi. Cầm mảnh vải đính ước trên tay, mọi nỗi đau đớn về thể xác do bị tra tấn cực hình như tan biến trong ông Tư. 

Ông sau đó cũng kiếm một miếng bạc mỏng khéo léo cắt thành hình trái tim, một mặt khắc hình búa liềm, mặt còn lại khắc chữ T.C lồng vào nhau để gửi phản hồi cho bà Châu. Đó là hiện thân của trái tim ông Tư: một nửa dành cho Châu, một nửa dành cho Tổ quốc.

Nhờ có lời hẹn ước từ bà Châu, ngọn lửa nhiệt huyết trong trái tim Lê Hồng Tư ngày một bừng cháy. 14 năm bị giam cầm, tra tấn ở địa ngục Côn Đảo cũng không khiến ông gục ngã.  

Nhìn các anh em ngã xuống, nỗi đau chồng chất nỗi đau, bị bệnh kiết lỵ đến thập tử nhất sinh nhưng ông Lê Hồng Tư vẫn kiên cường sống tiếp trong ngục tù, chờ đón ánh bình minh ngày giải phóng. 

Đây là những vần thơ nồng nàn Lê Hồng Tư gửi người thương phương xa trong dịp đất trời vào xuân:

Dù khi tắt lửa tối trời

Vững vàng quyết sống, không rời lòng son

Còn trời, còn nước, còn non

 Anh còn hơi thở là còn yêu em…” (báo QĐND trích đăng).

Cuối năm 1964, địch trả tự do cho bà Châu. Ra tù, bà tiếp tục móc nối liên lạc, tham gia hoạt động cách mạng và cập nhật tin tức của ông Tư. Đã không ít lần, bà tin báo ông đã hy sinh nhưng bà vẫn luôn tin tưởng ông vẫn còn sống và nhất định sẽ trở về.

Cái kết viên mãn

Ngày 7/5/1975, niềm tin sắt son ấy của bà Châu đã trở thành sự thật. Ông Lê Hồng Tư đã cùng đồng đội trở về đất liền trong sự chào đón nồng nhiệt của đồng chí, đồng bào và của người con gái ông thương – Lê Thị Châu.

Mối tình huyền thoại của cựu tù Côn Đảo và 14 năm đợi chờ: Anh còn hơi thở là còn yêu em - Ảnh 1.

Ông Lê Hồng Tư và bà Nguyễn Thị Châu hạnh phúc trong ngày cưới. Ảnh: QĐND

“Hơn ba tháng sau, chúng tôi tổ chức đám cưới. Ngày ấy, cuộc sống còn nhiều khó khăn. Tôi và Châu góp lại cũng chỉ có khoảng 50 đồng, nên đám cưới cũng chỉ có ít bánh kẹo và trà mời khách. Điều thú vị là, quá nửa số khách là khách… không mời, có những người chúng tôi cũng không quen. Thế nhưng, họ biết câu chuyện tình yêu của chúng tôi và chủ động đến chia vui,” ông Tư vui vẻ kể với TTXVN

17/8/1975 là ngày cưới của họ, khi đó, ông Lê Hồng Tư 40 tuổi, bà Nguyễn Thị Châu 37 tuổi, họ cuối cùng đã về chung một nhà sau 14 năm cách xa đằng đẵng bằng một đám cưới cách mạng, giản dị nhưng đặc biệt vui vẻ, ấm áp.

Vì những di chứng sau nhiều năm liên tục chịu sự tra tấn của kẻ thù, phải mất 2 năm sau, gia đình mới đón thêm thành viên nhí khi cậu bé Lê Nguyễn Hồng Quang cất tiếng khóc chào đời.

Họ có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhiều năm sau này với gia đình và công việc. Trước khi nghỉ hưu, bà là Chủ nhiệm Ủy ban Chăm sóc và Bảo vệ trẻ em TP.HCM, còn ông là Phó chủ tịch Liên đoàn Lao động TP.HCM.

Mối tình huyền thoại của cựu tù Côn Đảo và 14 năm đợi chờ: Anh còn hơi thở là còn yêu em - Ảnh 2.

Ông Lê Hồng Tư và bà Nguyễn Thị Châu trong một buổi giao lưu. Ảnh: Người lao động

“Những ngày ở Côn Đảo, khi nhận được lời hứa hôn và vật làm tin của em gửi tới, anh đã hiểu sâu sắc rằng, trong cuộc đời chúng ta không phải chỉ có đấu tranh không thôi, mà còn có niềm vui của một tình yêu thật sự tốt đẹp, chân chính” (báo QĐND trích thư ông Lê Hồng Tư gửi ý trung nhân trước ngày ra pháp trường lần hai).

Tổng hợp

Theo Trí thức trẻ

Bị đem cho, bé gái gào khóc gọi nhưng mẹ không thưa, gần 30 năm sau đoàn tụ mới rõ sự tình

Vào ngày được cha nuôi dẫn đi làm giấy khai sinh, chị Lan đã nhìn thấy mẹ trên chiếc xe đò đi ngang qua. Gọi mẹ, khóc thảm thiết nhưng bóng mẹ cứ xa dần.

Thấy mẹ đi ngang qua, gọi nhưng mẹ không thưa

Thất lạc mẹ từ năm 7-8 tuổi, chị Huỳnh Hoa Lan chỉ còn nhớ mang máng rằng mình sinh năm 1975, quê ở huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, có một chị gái tên ở nhà là Lùn, hơn chị khoảng 10 tuổi, một đứa em trai bị đẻ rơi nên được đặt tên là Cu Rớt. 

Tuổi thơ của bốn mẹ con chị Lan rất cực khổ. Chị Lan nhớ, cha bỏ đi theo nhân tình, mẹ nuôi không nổi nên đã gửi chị Lùn đi chăn trâu thuê cho người ta, còn mẹ đi làm lơ xe, mang theo cả hai con nhỏ. 

Đến khoảng năm 1980-1981, khi đi trên một chuyến xe, có người nói mẹ cho em Cu Rớt, nhưng phải làm giấy cam đoan là không được nhận lại con. Mẹ cũng gửi tôi đi nhiều chỗ nhờ nuôi nhưng nhớ quá nên lại đem về. Sau đó, tôi được gửi cho một người phụ nữ tên là bà Bảy Sớt. Bà Bảy Sớt lại gửi tôi cho ba nuôi của tôi bây giờ là ông Huỳnh Văn Bách. Cái tên Huỳnh Hoa Lan cũng là tên mà ba nuôi đặt cho, tôi không nhớ tên ngày xưa mẹ ruột đặt cho mình là gì. 

Bị đem cho, bé gái gào khóc gọi nhưng mẹ không thưa, gần 30 năm sau đoàn tụ mới rõ sự tình - Ảnh 1.

Chị Lan và chồng.

Bị đem cho, bé gái gào khóc gọi nhưng mẹ không thưa, gần 30 năm sau đoàn tụ mới rõ sự tình - Ảnh 2.

Chị Lan khóc nức nở khi nhìn những hình ảnh về mẹ và chị gái.

Tôi nhớ là mẹ làm lơ xe đò. Khoảng năm 1982-1983, ba nuôi dắt tôi đi làm giấy khai sinh, đứng ở ủy ban ăn bánh chờ ba, tôi thấy một chiếc xe chạy ngang qua và thấy mẹ đứng trên đó, ở phía cửa sau. Lúc đó tôi mẹ rồi khóc rất thảm thiết. Mẹ nhìn thấy tôi nhưng đi khuất dạng luôn. Từ đó về sau tôi không thấy mẹ nữa.

Sau này, tôi có quay về nơi từng sống để tìm mẹ nhưng mọi thứ đã thay đổi quá nhiều. Ký ức của tôi cũng chẳng còn nhớ được nhiều điều, nên quay lại mà không tìm ra được gì“, chị Lan tâm sự. 

27 năm sau ngày thất lạc gia đình, chị Lan đã kết hôn và sinh được hai cô con gái. Anh Trung, chồng chị Lan kể, nhiều đêm, anh chứng kiến vợ khóc vì thương nhớ mẹ và các chị em mà xót ruột. Vợ chồng anh chị đã gửi thư đến chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly” để tìm kiếm thân nhân. 

Bị đem cho, bé gái gào khóc gọi nhưng mẹ không thưa, gần 30 năm sau đoàn tụ mới rõ sự tình - Ảnh 3.

Gần 30 năm mới được trở về trong vòng tay mẹ

Trong khi chị Lan khao khát tìm được nguồn cội, thì ở một nơi xa, có một người mẹ là bà Tư Sánh, một người chị là chị Thủy cũng bao năm mong mỏi ngày đoàn tụ với con em mình. 

Chị Thủy lấy chồng từ năm 18 tuổi, sống ở huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Chị kết hôn với một người chồng nghèo nhưng rất hiền lành, mưu sinh bằng nghề cạo mủ cao su, nhặt hạt điều thuê. Dù đã lên chức bà ngoại, chị vẫn chưa một ngày nguôi ngoai khi nghĩ về tuổi thơ lang thang và buồn tủi của mình. Năm ấy phải đi chăn trâu thuê mấy nơi, đến khi về ở với mẹ thì chị Thủy không thấy còn hai đứa em nữa. 

Bị đem cho, bé gái gào khóc gọi nhưng mẹ không thưa, gần 30 năm sau đoàn tụ mới rõ sự tình - Ảnh 4.

Gia đình được đoàn tụ sau gần 30 năm. 

Mẹ của chị – bà Tư Sánh kể lại câu chuyện cuộc đời buồn bã của mình: “Hồi đó khổ lắm, tôi không có nhà cửa, đất đai gì cả. Ba nó có vợ nhỏ, lúc đó tôi đang mang thai, đi cắt lúa mướn, sinh ra một đứa con gọi nó là thằng Cu Rớt. Tôi vẫn nhớ gương mặt đứa con gái thất lạc của mình, nó có đôi mắt bồ câu, đôi lông mi cong đẹp. Nó giống chị nó lắm“.

Bị người chồng đầu gối tay ấp ruồng bỏ, phải đành đoạn đem cho con đi cho, tan nát cả gia đình, bà Tư Sánh đã sống một cuộc đời rất khổ cực. Mãi đến khi đã gần đất xa trời mới có gọi là có nhà có cửa, có bữa ăn đàng hoàng. 

Kết quả, chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly” xác định, chị Huỳnh Hoa Lan là con gái ruột của bà Tư Sánh. Khi ở với mẹ chị tên là Loan, hay còn gọi là Út. Chị tưởng mẹ mình làm nghề lơ xe, nhưng thực chất không phải như vậy. Bà Tư Sánh giải thích: “Tôi dẫn nó đi lên đi xuống xe đò suốt nên nó tưởng tôi đi lơ xe. Thực ra không phải như vậy, tôi dẫn nó đi tìm ba của nó thôi“. 

Bị đem cho, bé gái gào khóc gọi nhưng mẹ không thưa, gần 30 năm sau đoàn tụ mới rõ sự tình - Ảnh 6.

May mắn hơn, anh Cu Rớt cũng được tìm thấy.

Gần 30 năm sau ngày chia cách, chị Lan mới được gặp lại ruột thịt, được sà vào lòng mẹ ấm áp. Ba mẹ con ôm nhau khóc nghẹn ngào. 

Khi xem chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly”, ông Tám Đề ở Bến Cát, Bình Dương khẳng định Cu Rớt bị cho đi chính là cháu nuôi của ông nay tên là Đoàn Văn Võ. Ông Đề nói, Võ có một người chị đi chăn trâu cho ông, mẹ Võ không nuôi được con nên cho Võ đi. Ông Đề nhận và đem cho người chị của mình nuôi nấng. 

Khi lớn lên, hai cha con ông Bảy Sên và Võ thương quý nhau như ruột thịt. Võ cũng nhiều lần đi tìm mẹ đẻ ở mấy tỉnh xung quanh nhưng không có tin tức gì. Chương trình đã cho gia đình bà Tư Sánh địa chỉ của anh Võ để tìm gặp. Niềm vui một lần nữa lại đến với gia đình bà khi anh Võ chính là Cu Rớt năm xưa. 

Nguồn: Như chưa hề có cuộc chia ly

Theo Nhịp sống Việt

http://nhipsongviet.toquoc.vn/bi-dem-cho-be-gai-gao-khoc-goi-nhung-me-khong-thua-gan-30-nam-sau-doan-tu-moi-ro-su-tinh-8202245231651588.htm

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here